
Nhưng như trong cuốn sách Sài Gòn sụp đổ của Paul Dreyfus chúng ta sẽ thấy vũ khí và hỏa lực không phải lúc nào cũng đi kèm sức mạnh trong chiến đấu.
Photo by Hugh Van Es
Mục lục
SỤP ĐỔ
Có vẻ đồng hồ đang điểm những thời khắc cuối cùng cho chính phủ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan. Sau vụ khủng bố gây chấn động vào ngày 11/09/2001, Mỹ đã dẫn đầu một liên minh nhanh chóng lật đổ chính quyền Taliban và lập ra một chính quyền mới. Suốt 20 năm trôi qua Mỹ đã hỗ trợ xây dựng một chính thể cộng hòa hồi giáo tại nơi đây và ước tính viện trợ lên tới 1,000 tỷ USD.
Nhưng dường như cuộc chiến hao tiền tốn của của Mỹ phải dừng lại kể từ nhiệm kỳ trước, khi Trump đã quá mệt mỏi với vai trò sen đầm quốc tế của Hoa Kỳ, và Biden dù có nhiều khác biệt nhưng vẫn đảm bảo thời hạn rút quân mà vị tổng thống tiền nhiệm đưa ra.
Tất nhiên cách lụn bại của chính quyền Afghanistan thật sự bất ngờ, chỉ trong vòng 3 tháng kể từ khi Mỹ rút quân, với một đội quân đông hơn, hỏa lực mạnh hơn với khí tài hiện đại hơn nhưng Afghanistan không hề tỏ ra có sức kháng cự trước các tay súng Taliban được vũ trang một cách đơn giản.
Nhưng như trong cuốn sách “Sài Gòn sụp đổ” của Paul Dreyfus – một nhà báo Pháp làm việc tại Sài Gòn những năm 70, chúng ta sẽ thấy vũ khí và hỏa lực không phải lúc nào cũng đi kèm sức mạnh trong chiến đấu.
Cuốn sách của ông chính xác là một nhật ký chiến tranh, ghi lại những ngày tháng của cuối cùng của chế độ Sài Gòn kể từ khi hiệp định Paris có hiệu lực vào năm 1973 đến lúc chính quyền này hoàn toàn sụp đổ. Sách được xuất bản vào quý 3 năm 1975, gần như ngay sau các sự kiện lịch sử, tránh các trường hợp hợp lý hóa các luận cứ và khái quát hóa nhân quả khi chúng ta có đủ thời gian để nhìn lại. Do vậy theo dõi cuốn sách rất thật từ góc nhìn của Tác giả tại thời điểm đó.
Là một phóng viên Pháp, tác giả tiếp xúc được với rất nhiều bên, và phỏng vấn quan điểm của họ ngay tại lúc sự kiện diễn ra. Ngay từ đầu ông đã nhìn nhận Sài Gòn có một lực lượng có thể nói là “một trong những đội quân hùng mạnh nhất thế giới” (Trang 95) nhưng hiệu quả chiến đấu và tư duy chiến lược quá kém.
Nổi bật là việc quân giải phóng giành quyền kiểm soát thị xã Buôn Ma Thuột chỉ sau 2 tiếng đồng hồ giao tranh, đến mức những người chiến thắng cũng hoàn toàn bất ngờ.
Ông nhận thấy sự kém cỏi trong khả năng ra quyết định của Nguyễn Văn Thiệu khi rời bỏ toàn bộ cao nguyên trung phần một cách vội vã, gây ra hiệu domino sụp đổ cho toàn bộ miền Nam. Sau đó chính xác không còn những cuộc giao tranh thực sự tại Quảng Trị, Quảng Ngãi, Huế, Đà Nẵng hay Nha Trang mà đơn thuần là “cuộc rút quân biến thành cuộc tháo chạy toán loạn” kèm với đó là những thảm họa nhân đạo dọc đường bỏ trốn.
Tác giả đánh giá cao sự nhạy cảm của “Minh lớn” – Dương Văn Minh, người nhận thấy Sài Gòn đã đi đứt khi tướng Lê Minh Đảo để mất Xuân Lộc, và nhờ có vai trò của ông khi lãnh trách nhiệm ngồi ở vị trí mà không ai muốn ngồi sau khi Thiệu bỏ chạy, đã giúp cho Sài Gòn thoát khỏi thảm cảnh bị san phẳng.
Một Đại úy Pháo binh Bắc Việt đã chia sẻ với tác giả “Chúng tôi đã chia thành phố ra thành ba mươi ô vuông. Mỗi ô vuông là mục tiêu cho một trăm quả rốc két. Chúng tôi sẽ tuần tự bắn phá lần lượt từng ô vuông một. Nói thế, chắc ông cũng hiểu.” – Hậu quả nếu không đầu hàng.
THAM NHŨNG
Chính quyền của Thiệu được đánh giá quá thiếu năng lực nhưng lại thừa tham nhũng, bị lên án ngay trong chính quyền và những người Công giáo, Linh mục Trần Hữu Thanh cũng lên án Thiệu là “một kẻ đích danh tham nhũng”. “Các tỉnh trưởng đều là quân nhân. Họ đúng là những ông vua con thật sự. Ngay cả nhân viên cảnh sát giao thông cũng có thể tự ý đặt ra luật lệ đi đường theo cách riêng của mình”. Và Thiệu chưa bao giờ được lòng Sài Gòn, theo như tác giả, tồn tại đến 6 nhóm độc lập với uy thế nhất định từ phe quân đội đến các lực lượng tôn giáo muốn loại bỏ Thiệu.
Trái ngược, tác giả hoàn toàn ấn tượng với sự kỉ luật và đạo đức của những người lính Bắc Việt, họ không có vẻ kiêu ngạo của kẻ thắng trận, họ quen sống kham khổ, bước vào tiệm chỉ gọi một ly nước cam hoặc cốc trà đá, gọi cơm với rau chấm nước mắm, ăn rất nhanh và trả tiền cũng rất vội.
Ông viết “Những chú lính bé nhỏ quân phục màu xanh lá cây từng người đều biết rõ mình tiến vào Sài Gòn là để khôi phục lại lương tri, lòng ngay thẳng, sự lao động và nền công lý bình đẳng”
Và sau những ngày quan sát phải thốt lên: “Hỡi ơi! Từ ngày mà nghề nghiệp buộc tôi phải chứng kiến giao tranh và những cuộc cách mạng, tôi chưa bao giờ nhìn thấy những người thắng trận kín đáo và khiêm tốn như thế này”
Thực tế những người lính chân phương từ một xã hội kỉ luật và khắc khổ ở bên kia Vĩ tuyến 17, họ lên đường tòng quân với một lý tưởng “đánh Mỹ diệt Ngụy” thống nhất đất nước, ngay lúc này đây xã hội tiêu thụ của một Sài Gòn phồn hoa có lẽ đã làm họ choáng ngợp, giống như một chú bé nhà quê lần đầu lên phố, nhưng hầu như vẫn không thay đổi được thói quen đã ăn sâu trong những năm dài kháng chiến.
Tất nhiên Tác giả đã phải về Pháp vào ngày 24/05 – chưa đầy 1 tháng kể từ ngày thống nhất và không có nhiều hơn thông tin để cho chúng ta biết những gì diễn ra sau đó…
KẾT
Điểm chung của hai chính quyền Sài Gòn và Afghanistan là có vẻ như họ không tồn tại độc lập được nếu thiếu nguồn viện trợ về kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ. Đội quân mạnh nhưng phụ thuộc vào sự lãnh đạo và ra quyết định của các cố vấn quân sự đến từ bên kia bán cầu, nền kinh tế èo uột không đủ khả năng tự nuôi sống chính nó, đi kèm với tệ tham nhũng và không có được sự thống nhất ngay trong chính phủ.
Có vẻ sau 20 năm miệt mài trên chiến trường cho đến khi rời bỏ Afghanistan, Mỹ cũng đã nghĩ về một viễn cảnh của Sài Gòn hơn 45 năm trước.
Các bạn có thể cùng trao đổi thêm về cuốn sách tại Page Đọc sách cùng Vũ nhé.