Đây là một cuốn sách đặc biệt về lịch sử Việt Nam giai đoạn 1771 đến năm 1802. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn toàn diện nhất về tình hình chung của nền chính trị kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ này. Hầu như các sách của sử gia Việt Nam viết về giai đoạn này đều thể hiện cảm tình không chút dấu giếm với nhà Tây Sơn và ca ngợi công lao to lớn của vị tướng quân, hoàng đế lỗi lạc Quang Trung – Nguyễn Huệ mà bỏ qua những diễn biến khác đương thời.
Tạ Chí Đại Trường – một người con của Bình Định, nơi khởi phát của phong trào Tây Sơn. Theo như lý lẽ thông thường và theo chủ nghĩa địa phương thường thấy ở Việt Nam, ông chắc sẽ có phần thiên vị cho ba anh em nhà Nhạc Lữ Huệ. Tuy nhiên sự thật cuốn sách là một nghiên cứu khách quan thực sự. Với tinh thần khoa học chân chính, mong ước làm sáng tỏ những diễn biến của giai đoạn đầy biến động này, ông đã tìm kiếm những nguồn tài liệu khác nhau, không chỉ giới hạn của các tác giả Việt Nam mà là tài liệu cuả người Pháp, người Hoa, những bức thư của những người trong cuộc hoặc những giáo sĩ đương thời. Quan trọng hơn ông không tách rời những diễn biến lịch sử Việt Nam khỏi sự vận động của lịch sử thế giới hay sự đổi thay nội tại trong xã hội, kinh tế Việt Nam.
Mục lục
TÂY SƠN
Tây Sơn là kết quả cuộc di cư vào Nam của dân tộc Việt, được khởi đầu không phải bởi sự yếu kém của chúa tôi nhà Nguyễn, mà bắt đầu từ khi Nguyễn Kim giương lên ngọn cờ phù Lê diệt Mạc. Nguyễn Hoàng vì cầu sinh đã chạy vào đất Thuận Hóa, trước áp lực sống còn đã liên tục mở rộng, cải cách,áp dụng kỹ thuật canh tác nông nghiệp lên những vùng đất mới, tìm kiếm và củng cố sức mạnh cho dòng họ mình. Trong quá trình di cư ấy, những người từ Đằng Ngoài, những kẻ Minh Hương chạy loạn đã khai phá Đằng Trong với sự cần cù và tỉ mỉ, khó khăn trong cuộc sống khiến họ không những phải đẩy mạnh canh tác mà còn phải thúc đẩy giao thương, tạo nên một tầng lớp lái buôn mới. Tây Sơn xuất hiện, không đơn giản như cách nhìn nhận về xung đột giai cấp của những cuộc cách mạng dân chủ thế kỷ 20.
Tây Sơn xuất hiện vì chính những mâu thuẫn đương thời, không chỉ đơn giản là mẫu thuẫn giữa dân nghèo không có gạo với địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa những tay lái buôn quan hệ rộng với tâng lớp quan lại, mà còn chính là những mâu thuẫn trong nội bộ triều đình, là phế trưởng lập thứ, là tranh giành ảnh hưởng giữa các thế lực đương thời mà sau này nhiều người đổ hết tội trạng lên đầu quyền thần Trương Phúc Loan, một tay nắm hết triều đình. Mọi chuyện bắt đầu với chính sách kinh tế sai lầm của Võ Vương – đúc tiền kẽm, dễ hư hỏng và khó bảo quản, nhưng lại có giá trị bằng tiền đồng và bùng nổ khi dân chúng không còn muốn giữ tiền mà chỉ giữ lại lúa gạo, gây ra nạn đói lớn khắp miền Thuận Hóa trở vào. Chính quyền lại lơ là trị quốc, chiến tranh với lân bang, trị an không đảm bảo.
Tây Sơn được cầm đầu bởi Biện Nhạc – một tay lái buôn kiêm thu thuế cho triều đình, nhân cơ hội kéo băng đảng của mình tràn từ miền ngược xuống miền xuôi cướp thóc người giàu và chia cho người nghèo. Băng đảng này không chỉ gồm dân nghèo mà còn cả các băng cướp trong vùng, phú nông, lái buôn, người Hoa hay thầy đồ bất mãn với gian thần. Sử nhà Nguyễn ghi lại, Nguyễn Nhạc lấy tiền thuế đánh bạc, sợ bị trách tội nên nổi loạn – một lý do khá khiên cưỡng dành cho một tay thương gia có khả năng tập hợp đủ loại thành phần người cùng mình chống lại triều đình. Tác giả thì cho rằng với chức danh Thượng sư cho Nhạc, đại pháp sư cho Lữ, rồi biểu tượng cờ hồng của cuộc khởi nghĩa, cuộc nổi loạn này có thể mang tính chất tôn giáo. Một bằng cớ khá hợp lý, có lẽ Tạ Chí Đại Trường cũng đã nghĩ tới cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc với giáo chủ Hồng Tú Toàn- người đã lập ra đạo bái Thượng Đế rồi nhân nạn đói mà hô hào nông dân miền Nam ầm ầm nổi loạn đánh lung lay tận gốc rễ triều đình nhà Thanh. Tuy nhiên đó chỉ là một giả thiết, không thấy một giáo lý nào rõ ràng được Tây Sơn đề ra và truyền lại đến nay, hay thậm chí không thấy sự khác biệt mô hình nhà nước của họ để chúng ta có thể chắc chắn về màu sắc tôn giáo.
Dù sao cuộc khởi nghĩa đã bắt đầu vào năm 1771 với danh nghĩa phò hoàn tôn Dương, đánh dẹp Trương Phúc Loan và không gây nên tiếng vang lớn cho đến tận khi đội quân ô hợp này chiếm thành Quy Nhơn. Nhà Nguyễn lúc đó mơí thấy đây không chỉ là giặc cỏ bình thường, xua binh đến dẹp nhưng không thành. Tây Sơn không bại nhưng với tài nguyên và nhân lực hạn hẹp trong vùng chiếm đóng, họ cũng khó phát triển lớn để thành đối trọng thực sự với triều đình. May thay chúa tôi nhà Trịnh biết chuyện, năm 1774, 4 vạn quân dưới quyền chỉ huy của danh tướng Hoàng Ngũ Phúc kéo vào Nam. Diệt Phúc Loan, cướp hết gia tài Phú Xuân, đuổi chúa tôi nhà Nguyễn về Quảng Nam. Tây Sơn nhân cơ hội lại đánh tới, Hội An bị Tây Sơn diệt, thương nghiệp gần như chấm dứt, gây ra hậu quả lâu dài cho chính họ sau này, còn nhà Nguyễn lên thuyền chạy về Gia Đinh lánh nạn. Vị thế đổi thay, Tây Sơn giờ mới đúng là lưỡng đầu thọ địch. Nhạc thử quân vài lần với nhà Trịnh, biết khó lòng đối phó nên vội vàng hòa hoãn. Quân Trịnh cướp xong ngân khố, chẳng còn nhiều tham vọng nên đồng ý, phong chức tước cho Tây Sơn, mựon tay họ diệt sạch nhà Nguyễn. Từ đây Tây Sơn mới bắt đầu lớn mạnh thực sự!
Tây Sơn bắt đầu công cuộc xây dựng cơ đồ của mình, đuổi cùng diệt tận nhà Nguyễn. Năm 1774 nạn đói bắt đầu, từ Nghệ An kéo vào đến tận Phú Xuân, người chết khắp nơi, đại dịch hoành hoành, quân Trịnh chết quá nửa. Ông trời đã giúp Tây Sơn kìm hãm được một thế lực nguy hiểm để an tâm bình định miền Nam giàu có. Từ năm 1776 đến năm 1778, Tây Sơn ba lần tiến vào Gia Định, đánh tan đội quân Đông Sơn của Lý Tài, giết Tân Chính Vương, Duệ Tông và toàn bộ gia quyến nhà Nguyễn.
May mắn Nguyễn Ánh thoát được, bắt đầu cuộc đời lưu lạc li kì và hành trình phục quốc hào hùng như một bản trường ca.
Nhà Nguyễn bị tận diệt, tướng lĩnh, những kẻ trung thành với triều đại cũ hay bất mãn với Tây Sơn chỉ còn biết hướng về vị công tử trẻ tuổi còn sống sót – Nguyễn Phúc Ánh. Nguyễn Ánh gần như đã tận dụng mọi phương pháp và mọi nguồn lực để có thể chống lại Tây Sơn. Ông cầu viện Xiêm nhưng nhanh chóng thất bại, rồi sau đó là những tháng ngày mệt mỏi chờ tin Tây Phương khi bị giam lỏng ở Xiêm La.
Trong lúc đó, với sự tư vấn nhiệt tình từ Hữu Chỉnh, nhà Tây Sơn bắt đầu vươn mình ra Bắc, tiến đánh chiếm Phú Xuân và sau đó kéo quân tới Thăng Long dọn dẹp toàn bộ dư đảng chúa Trịnh. Nguyễn Huệ chiếm được kho tàng, lấy Ngọc Hân, nhận chức đại nguyên soái và sau đó rút về Phú Xuân theo sau sự thúc dục của Nguyễn Nhạc. Kho tàng, và sự nghi kị giữa người anh già đã thỏa mãn với danh vọng và người em vừa được mở ra chân trời mới khiến Thái Đức và Bắc Bình Vương trở mặt đánh nhau. Nguyễn Nhạc sắp thua, lên thành khóc lóc van xin, hai bên đình chiến. Nhưng mâu thuẫn này là bước khởi đầu cho sự diệt vong của Tây Sơn về sau. Dân chúng oán thán, nội bộ lủng củng khiến cho Nguyễn Ánh ngư ông đắc lợi. Ba anh em áo vải ngày nào hiện tại mỗi người bá chủ mỗi phương, Nguyễn Huệ từ phú Xuân trở ra, Nguyễn Nhạc từ Quảng Nam trở vào và Nguyễn Lữ nắm vùng Gia Định. Nguyễn Lữ yếu kém, nhanh chóng bị Nguyễn Ánh lập mưu đuổi khỏi vùng đất màu mỡ. Nguyễn Nhạc giờ đã an phận thủ thường không có khả năng đánh dẹp. Ngươi em tài ba Nguyễn Huệ lại bị chia cách bởi hai ông anh, không có cơ hội đối mặt, cùng đó lại vướng bận bình định vùng đất nặng nề trì trệ Bắc Hà và dã tâm xâm lược từ nhà Thanh. Nguyễn Ánh nhân cơ hội mau chóng lớn mạnh, xây dựng lực lượng, ổn định nội bộ. Hiệp ước tương trợ với Pháp tuy không thành do tình hình cách mạng tư sản nhưng cũng giúp Nguyễn Ánh được biết tới nhiều hơn và nhận nhiều sự trợ giúp từ Tây phương.
Năm 1789, Quang Trung lên ngôi, và tốc chiến tốc thắng đánh bại 29 vạn (hay 20 vạn – hay 10 vạn?) quân Thanh xâm lược. Danh chính ngôn thuận thành vị lãnh tụ tối cao, được nhà Thanh công nhận là An Nam quốc vương. Nhận thấy nguy cơ từ quân Gia Định, Quang Trung liên hệ anh trai Nguyễn Nhạc để cùng bình định miền Nam. Nhưng vì mải lo lắng việc quân việc nước ông qua đời vào năm 1793, đánh dấu thời điểm suy tàn của một triều đại non trẻ. Nguyễn Nhạc đánh không lại thủy lục quân hùng mạnh của Gia Định, Quang Toản dẫn quân vào cứu và chiếm luôn kinh đo Đồ Bàn, ép chết bác trai.
Từ đây chỉ còn hai lực lượng chính trên toàn cõi Việt Nam, Nhà Nguyễn ở Gia Định và Tây Sơn ở Phú Xuân. Triều Tây Sơn rơi vào lục đục nội bộ, quân tướng thanh trừ lẫn nhau, trong khi đó Nguyễn Ánh ngày càng lớn mạnh và cứ mỗi mùa gió lại xua quân ra Bắc đánh phá quấy nhiễu Tây Sơn đồng thời luyện binh. Bước ngoặt diễn ra vào năm 1801, trận đánh được coi là đệ nhất võ công của nhà Nguyễn, khi Nguyễn Ánh dẫn đầu đội thủy quân thiện chiến của mình tiến đánh cửa biển Thị Nại, nơi tập trung toàn bộ lực lượng thủy binh của Tây Sơn. Với kế hỏa công và tinh thần liều chết của quân sĩ, nhà Nguyễn đại thắng, tiêu diệt thủy quân Tây Sơn, khiến Quang Toản về sau vô phương chống cự nhà Nguyễn trên mặt biển và thất bại nhanh chóng trong trận Phú Xuân. Với sự cơ động của thủy quân, Nguyễn Ánh táo bạo quyết định tiến về cố đô, bỏ lại Bình Định cho Võ Tánh cố thủ, đuổi vua tôi Tây Sơn chạy ra bắc. Chiến cục đã được định đoạt. Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu nước xa không cứu được lửa gần, Quang Toản thực hiện cuộc phản công cuối cùng trước khi rút lui về Thăng Long và thất thủ sau đó. Khởi nghĩa Tây Sơn bắt đầu năm 1771 góp phần thông nhất nước nhà, phá bỏ ranh giới Bắc Nam tồn tại đã 200 năm. Nhưng cuối cùng chiến thắng đã thuộc về người bền bỉ nhất là Nguyễn Ánh cùng với sự kết thúc của một giai đoạn nội chiến dai dẳng hàng trăm năm.
Nguyễn Huệ – Nguyễn Ánh
Nguyễn Huệ là thiên tài quân sự. Một trong những vị tướng với lối đánh tập kích, hành binh thần tốc, điều binh khiển tướng hàng đầu trong lịch sử Việt Nam. Thật khó tin khi một chàng trai trẻ 22 tuổi lại có thể dẫn đầu một đám quân ô hợp băng qua đèo Cù Mông rồi đánh tan quân địch tại Phú Yên, Khánh Hòa thắp lên niềm hi vọng cho một lực lượng bạo động còn non trẻ. Khó tin hơn nữa là lần hành quân thần tốc từ Phú Xuân ra Thăng Long trong vòng hai tuần (từ 22 tháng chạp đến mùng 5 Kỷ Dậu) đánh tan 20 vạn quân Thanh. Quang Trung ghi tên mình vào lịch sử bằng những chiến công quân sự hiển hách, nhờ ông mà quân Xiêm sợ Tây Sơn vỡ mật, Càn Long thôi ý định tiến công Đại Việt, thành Gia Định thì loạn lên vì chỉ nghe phong thanh “tướng giặc” sắp vào tiêu diệt vương của họ.
Tác giả rất cố gắng để có thể tìm ra trong sử liệu ít ỏi những mô tả về Quang Trung để tái hiện con người chân thật nhất của ông và đạt được một số kết quả nhưng vẫn còn rất khiêm tốn. Không có nhiều thông tin mới về ông. Vẫn là bách chiến bách thắng tướng quân, vẫn là chính trị gia đầy khôn ngoan và quyền biến. Có khác chăng là ông đã diễn tả được quá trình thay đổi tâm lý của một thiên tài từ một tay thảo khấu miền núi đến khi là phò mã của nhà Lê 400 năm lịch sử và cuối cùng là hoàng đế của một triều đại mới.
Tầm nhìn của ông được mở rộng qua quá trình tiếp xúc với những con người mới, đó là người tài duy nhất của Bắc Hà như Nguyễn Hữu Chỉnh tự phong cho mình, nhờ vậy ông mới đủ tự tin và dũng cảm tiến ra Thăng Long với danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh. Đó là vua tôi ươn hèn nhà Lê cùng với người vợ Ngọc Hân công chúa giúp ông nhìn rõ bộ mặt của một triều đại đã suy tàn. Ông tỏ ra là một nhà chính trị thông thái nhưng cũng đa nghi, bỏ lại Hữu Chỉnh, ép viên tướng tài nhưng nhiều tham vọng này vào con đường bội phản, sai tùy tướng tài giỏi nhưng là con rể của Thái Đức – Vũ Văn Nhậm ra xử lý và sau đó nhanh chóng nhân lời trình của Sở mà ra Bắc dọn dẹp rồi bình định toàn bộ Bắc Hà.
Ông thấy rõ sự khó khăn của Tây Sơn đang phải đương đầu, đó là chính sách nông nghiệp yếu kém trên một vùng đất ngàn năm canh tác đến mức cằn cỗi, là sự bất hợp tác từ các thuyền buôn Tây Phương dẫn tới sự thiếu thốn tài nguyên vật liệu và cao hơn hết là mối họa đang lên từ vùng Gia Định. Ông đã cố gắng hết sức thay đổi bộ mặt triều đình mang tính quân phiệt của mình bằng cách mời về các nhà nho đương thời, phổ cập chữ Nôm theo nhu cầu thực tế của những kẻ áo vải đang nắm quyền trị quốc và tìm cách mở rộng giao thương.
Tuy nhiên một mình nỗ lực của ông là không đủ, kết quả mang lại là quá hạn chế, ông không những phải chịu những khó khăn từ bên trong lẫn bên ngoài mà còn phải gánh chịu những vấn đề gần như không thể giải quyết được bắt đầu từ chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Đó là thiếu sự ủng hộ của Nho sĩ – tầng lớp tri thức đương thời, là thiếu quan hệ với giáo sĩ Tây phương – đầu mối liên lạc với những thuyền buôn ngoại quốc, là mất đi lực lượng thương nhân đông đảo người Hoa do sự tàn phá Hội An ngày trước. Ông qua đời khi đang trên đỉnh cao quyền lực và trong giai đoạn quang vinh nhất của một đời người, để lại một triều đại non trẻ với quá nhiều vấn đề nội tại mà họa chăng có ông mới giải quyết được.
Lép vế trước Quang Trung nhưng giành chiến thắng cuối cùng là một con người tài năng không kém – Gia Long. Trong tình thế thân cô thế kém, Ánh biết tận dụng mọi nguồn giúp đỡ để phát triển lực lượng của mình và trải qua nhiều biến loạn hình thành nên tính cách của một bậc đế vương thực sự.
Nhờ những thư từ qua lại với Tây phương còn sót lại hay những sử liệu phong phú thu thập được, Tạ Chí Đại Trường đã phần nào khắc họa nên một con người rất lịch sử của Ánh. Gần như tuyệt vọng trước Tây Sơn hùng mạnh sau trận Rạch Gầm Xoài Mút. Trở lại Nam Kỳ chắc không phải vì tin tưởng có khả năng dựng được nghiệp lớn mà vì muốn thoát khỏi kìm kẹp của Xiêm quốc và hơn hết sự thúc đẩy của các tướng lĩnh còn lại tại Long Xuyên. Mặc cảm tự ti và nỗi ám ảnh Tây Sơn khiến ông không chịu xuất binh Bắc tiến dù quân lực đã rất ổn định, và phải đợi đến khi bị các giáo sĩ Tây phương thúc ép tới mức không còn lựa chọn ông mới động binh. Con người ông dần dần được tôi luyện, biết cách dung hòa nhiều lực lượng trong quân đội, vừa sử dụng đám cận thần đệ tử Khổng giáo lại biết vỗ về tận dụng những kẻ phiêu lưu tới từ bên kia đại dương hay làm đẹp lòng những giáo sĩ ngoan đạo nhiều quan hệ, cùng đó là kỹ năng ngoại giao khôn khéo với người Xiêm. Gia Long sinh ra không phải là chân mệnh đế vương mà vốn dĩ là qua gian lao khổ nhọc mới đạt được tột đỉnh vinh quang, cũng như Nguyễn Huệ, dù khác nhau về xuất thân và tính cách hay tài năng nhưng cơ nghiệp của hai ông đều là đánh mới có!
KẾT
Thực ra trong cuốn sách này, Tạ Chí Đại Trường không đi sâu quá vào chi tiết từng trận đánh hay chiến dịch, ông chỉ đi sâu vào những chi tiết mới, những sử liệu quý giá đã góp phần vẽ nên một bức tranh toàn cảnh nhất và chân thật nhất về những diễn biến đương thời. Lịch sử không còn khô khan là những trận đánh, số người chết, kẻ bị thương, là những chiến công hiển hách để khích lệ tình thần dân tộc mà lịch sử là sự thật, là tổng hợp những thay đổi về kinh tế, xã hội, văn hóa và quân sự. Lịch sử là bài học cho hiện tại. Ông viết tác phẩm vào năm 1967 và chắc cũng mong muốn phần nào cung cấp được những kinh nghiệm bổ ích cho các chính trị gia khi hai miền thống nhất.
Qua cuốn sách chúng ta thấy rằng một lực lượng quân sự mạnh là chưa đủ. Chính quyền cần giải quyết được các vấn đề xã hội nếu muốn gây dựng một quốc gia bền vững. Xây dựng quốc gia bằng công cụ bạo lực và sợ hãi rồi sẽ nhanh chóng bị thất bại.
Những câu chuyện lịch sử trong tác phẩm chắc sẽ mang lại nhiều cảm hứng cho chúng ta. Đơn giản như trong cuộc sống có nhiều chuyện không thích nhưng vẫn phải làm vì nó là cần thiết hoặc là cuộc sống luôn phức tạp với các mục tiêu và lý tưởng khác nhau, muốn thành công phải biết dung hòa lợi ích, và cứ làm tốt nhất việc mình có thể làm, kết quả tốt đẹp ắt sẽ tới. Nguyễn Ánh chắc không hề thích cách cơ đốc giáo bác bỏ các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc mình, nhưng vì cần khoa học kỹ thuật và lực lượng của họ, ông vẫn nhẫn nại và sử dụng. Ông biết cách làm đẹp lòng các bên, kẻ mong có tiền, người mong có đạo. Ông chăm chỉ tiến từng bước một, xây dựng căn cơ vững chắc từ nơi khởi đầu và từng ngày lại càng tiến bộ. Ai không thể thu thập và sử dụng được hết các nguồn lực, kẻ đó sẽ bại và thực sự Tây Sơn đã bại vì chỉ biết trông chờ vào mỗi lực lượng binh tướng nông dân của mình.
Các trận đánh được miêu tả trong đó không đơn giản như chúng ta thường nghĩ, chỉ là đấu mưu cao kế dày, chưa vào trận đã biết thắng thua, mà thực sự thắng thua được quyết định trong tích tắc để rồi ngay chính người trong cuộc cũng bất ngờ. Nếu Lê Văn Duyệt không màng sống chết dẫn đầu toàn quân xông lên thì chắc gì nhà Nguyễn đã có đệ nhất võ công Thị Nại để làm rạng rỡ sử sách của mình. Nếu một cánh quân của Tây Sơn không đầu hàng thì có khi Nguyễn Ánh đã chết dưới tay Bùi Thị Xuân. Kết quả là tập hợp của những quyết định. Một quyết định đơn giản có thể dẫn tới những thay đổi không ngờ và sự liều lĩnh, mạo hiểm là không thể thiếu trong mọi chiến thắng. Nếu Nguyễn Ánh không bỏ Bình Định và mang thủy quân tiến vào Phú Xuân thì chắc cục diện cát cứ hai miền còn kéo dài đến tận nhiều năm sau. Nếu Tây Sơn không đuổi thương gia Hoa kiều ra khỏi Gia Định thì chắc gì Nguyễn Ánh đã được các lực lượng ở đây hân hoan đón về mà bắt đầu dựng nghiệp.
Tạ Chí Đại Trường trong nỗ lực làm sáng tỏ quá khứ đã chiếu sáng cả hiện tại và mang đến những góc nhìn mới cho mọi người về một giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc. Một tác phẩm đáng đọc và suy ngẫm.
Mọi người có thể cùng thảo luận về cuốn sách tại Page Đọc Sách Cùng Vũ