CÚ SỐC THỜI GIAN và KINH TẾ VIỆT NAM của giáo sư Trần Văn Thọ được giải thưởng Phan Châu Trinh xuất bản vào năm 2016 và vẫn đầy tính thời sự, gồm 3 Phần 16 chương và 1 phụ trang được sắp xếp một cách khoa học nhằm làm rõ vị trí và quá trình phát triển kinh tế Việt Nam trong 40 năm qua (1975 đến 2015) và những câu chuyện về các con hổ, con rồng Châu Á láng giềng với quy mô dân số và thị trường từ trung bình tới lớn (từ Hàn Quốc tới Trung Quốc) đã tiến hành cải cách và đi lên ra sao cũng như từ đó nhìn ra bài học dành cho Việt Nam.
Mục lục
Cú sốc thời gian
Cuốn sách khiến mình nhớ khoảng chừng những năm 2008 – 2010 khi trên khắp các diễn đàn báo chí về kinh tế, nhiều loạt bài mở lên tranh luận sôi nổi về con đường của chúng ta “Đông Á hay Đông Nam Á”. Và các tác giả quả quyết Việt Nam chúng ta phải chọn Nhật, Hàn, Trung làm thước đo mà tiến, đừng để lâu thành trì trệ như Malaysia, Philippines…
Cuốn sách với tựa đề nhấn mạnh “cú sốc thời gian” thể hiện sự lo lắng cũng như sốt sắng của Giáo sư về tốc độ cũng như chất lượng phát triển của Việt Nam khi năm tháng ngày một trôi qua, bạn bè từng đồng trang lứa thì chạy như bay trên những cao tốc sáng đèn phăm phăm về đích, còn mình vẫn là anh học trò được tiếng thông minh nhưng thích mò mẫm trên đường làng quanh co và tối tăm mặt mũi.
Cú sốc thời gian chúng ta có thể nhìn rõ trong ví dụ về Philippines, vào năm 1960 quốc đảo này có thu nhập cao hơn Thái Lan 2.5 lần, Hàn Quốc 1.5 lần, đến năm 1976 bước vào hàng ngũ thu nhập trung bình thấp và sau hơn 40 năm vẫn nằm ở mức đó, số liệu mới nhất cho thấy GDP bình quân đầu người của Philippines chưa bằng ½ Thái Lan và cao hơn… 1/10 của Hàn Quốc một ít. 60 năm nhìn lại đối với họ thật kinh khủng.
Ở một chiều hướng ngược lại, Nhật năm 1945 còn bị ảnh hưởng kinh hoàng bởi thế chiến, đến năm 1952 vẫn đang có thu nhập trung bình thấp, đến năm 1956 đã cơ bản hồi phục lại mức phát triển trước chiến tranh và từ năm 1955 – 1973 (18 năm) là quá trình phát triển thần kì với tốc độ bình quân hằng năm trên 10% và đưa Nhật bản lên thẳng vào top các cường quốc phát triển, vượt Anh, Pháp, Đức. Như vậy tổng thời gian kể từ kết thúc chiến tranh tới lúc vươn mình thành cường quốc số 2 thế giới, Nhật Bản mất 28 năm! Tất nhiên phải nhìn nhận Nhật Bản đã có sẵn nền tảng về thể chế và con người từ lần cải cách Minh Trị Duy Tân 100 năm trước.
Đáng chú ý hơn là người hàng xóm của Nhật Bản với lòng tự tôn dân tộc cao ngút trời: Hàn Quốc. Hàn Quốc kết thúc chiến tranh Triều Tiên với nền kinh tế rệu rã vào năm 1953, bắt đầu kế hoạch cải cách vào năm 1961 và được kết nạp vào nhóm OECD – nhóm những nền kinh tế phát triển nhất thế giới – vào năm 1996, 43 năm từ ngày kết thúc chiến tranh và 35 năm từ lúc cải cách. Thật đáng ngưỡng mộ!
35 năm chính xác là quãng thời gian kể từ Đổi mới năm 1986 tại Việt Nam cho đến hiện tại. Đến nay đã hơn 50 năm trôi qua kể từ ngày thống nhất đất nước và tất nhiên chúng ta đã ghi nhận được những thành tích phát triển nhất định, thoát khỏi đói nghèo, gia nhập hàng ngũ những quốc gia có thu nhập trung bình, tiến sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, điểm sáng trong thu hút FDI, đặc biệt sau màn điều chỉnh lại quy mô nền kinh tế năm 2020 thì chúng ta chính thức đứng thứ 4 ASEAN về quy mô, còn GDP đầu người thì vượt luôn Philippines (Điều chỉnh theo cách tính của IMF, còn World Bank thì vẫn dùng số liệu “cũ” nên Việt Nam còn kém Phil) . Tất nhiên nếu xét về mục tiêu đến năm 2020 – tức là sau 35 năm đổi mới – cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại như đại hội X nêu ra thì đã không đạt được – cũng được tác giả cũng như nhiều chuyên gia đã có dự báo từ trước.
Theo tác giả, Việt Nam đang trải qua thời kỳ dân số vàng là thời điểm tuyệt vời nhất để trở mình tiến tới, tuy nhiên càng tiến về cuối thời kỳ này, chúng ta lại càng nhận ra Việt Nam có nguy cơ đang tiến tới vũng lầy bẫy thu nhập trung bình nếu không có những thay đổi quyết liệt.

Một số bài học cho Việt Nam
Có rất nhiều yếu tố để một quốc gia chuyển mình mạnh mẽ như Hàn Quốc, Nhật Bản hay Trung Quốc nhưng mình rút ra một số bài học như sau:
Lãnh đạo có khát vọng và thực sự sống với khát vọng đó: Giống như chúng ta hay nói đến lãnh đạo có tâm và tầm. Ông Ikeda Hayato là kiến trúc sư của quá trình cải cách và phát triển thần kì sau hậu chiến của Nhật Bản với kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân – tức là tăng gấp đôi thu nhập người dân trong vòng 10 năm nhưng đã sớm bị vỡ kế hoạch khi… chỉ cần 7 năm. Vào năm 1950 ông dẫn phái đoàn bộ tài chính công du qua Mỹ: chỉ thuê khách sạn ba sao và hai, ba người gồm ông là đương kim Bộ trưởng ở chung phòng, sáng họp, tối tập trung tại phòng ông để bàn nội dung làm việc. Khách sạn nhỏ, phòng không có bàn và phải ngồi bệt trên sàn. Tại sao phải khổ vậy, vì họ muốn tiết kiệm tối đa ngoại tệ cho việc nhập nguyên liệu phục vụ quá trình phát triển và đầu tư để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, không lãng phí vào các khoản chi không thực sự cần thiết. Lãnh đạo có khát vọng như ngọn đuốc, không phải là ngọn đuốc toàn năng soi sáng con đường, mà là ngọn đuốc say mê tập hợp nguồn lực quốc gia đặc biệt là lực lượng trí thức cùng tề tựu và đưa ra các sách lược phát triển đất nước.
Chính với khát vọng phát triển nền kinh tế nước Nhật hậu chiến, Ông Yahato đã lập 1 nhóm 7 người bao gồm các trí thức và các quan chức chủ chốt để vạch ra kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân nhằm tranh cử chức Thủ tướng. Hay giờ đây ai cũng biết xe hơi Nhật Bản nhưng 60 năm về trước khi một số quan chức bộ Công thương Nhật Bản muốn thực hiện tham vọng sản xuất ô tô thì đã gặp quá nhiều trở lực. Họ đọc được bài báo của giáo sư Shinohara về lợi thế so sánh động, như vớ được phao cứu sinh, họ vội liên lạc để tìm hiểu thêm về con đường phát triển ngành công nghiệp ô tô. Giáo sư nhớ lại: đêm đó 3, 4 người từ bộ Công thương qua trao đổi liên tục, đến tận khuya vẫn không dứt chuyện và họ chỉ rời nhà khi đồng hồ đã điểm 5 giờ sáng..
Hay tại Hàn Quốc Park Chung-hee lên nắm quyền và đã thành lập Hội đồng hoạch định kinh tế quy tụ những chuyên gia học ở Mỹ và những vị này được giao toàn quyền hoạch định chiến lược để phát triển nền kinh tế Quốc gia. Ông Tổng thống hoàn toàn bám sát các hoạch định để thực hiện các chỉ đạo và cơ chế để đảm bảo thực hiện chính sách thành công.
Tại Việt Nam một thời trí thức cũng sôi nổi xung quanh cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt – người chỉ ra nguy cơ lớn nhất của Việt Nam là “tụt hậu” nhưng rồi ông cũng không thay đổi được nhiều phe bảo thủ chỉ lo quốc gia bị “chệch hướng chủ nghĩa xã hội” nên để lỡ nhiều cơ hội vào cuối những năm 90.
Khả năng lên kế hoạch: Điều này thể hiện rõ trong chiến lược các ngành. Chúng ta đã có mục tiêu đưa nước nhà công nghiệp hóa hiện đại hóa vào năm 2020 nhưng từ văn kiện đại hội Đảng ra đến chiến lược thực hiện có vẻ không có sự đồng nhất nếu không muốn nói là bị bỏ hoang nhiều năm, dẫn tới hậu quả là “nghị quyết vẫn còn nguyên giá trị” (ai muốn giải trí thêm có thể đọc bài này của anh Dương Ngọc Thái: https://vnhacker.blogspot.com/…/nghi-quyet-van-con… nghị quyết vẫn còn nguyên giá trị vì Chính phủ không thực hiện).
Cũng là định hướng về công nghiệp hiện đại, hãy xem cách làm của Nhật Bản 60 năm về trước: Họ vạch ra chiến lược thay đổi cơ cấu công nghiệp chuyển đổi từ các ngành thâm dụng lao động như dệt may, tơ sợi… sang các ngành có hàm lượng tư bản và công nghệ cao như thép, hóa dầu, xe hơi… Các ngành cụ thể được lựa chọn thì có các công cụ chính sách là các kế hoạch, luật hoặc pháp lệnh lâm thời có hiệu lực trong thời gian ngắn như Chính sách nuôi dưỡng ngành hóa dầu (1955), Luật lâm thời chấn hưng công nghiệp máy móc (1956), Công nghiệp điện tử (1957) hay luật về phát triển các ngành cơ khí (1957) để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Và sau đó là các chinh sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận công nghệ vốn, lập quỹ cho vay (1953).
Còn Việt Nam thì sau khi đề ra mục tiêu công nghiệp hóa, thời gian đầu không có chiến lược rõ ràng đến những năm 2000 chúng ta đã đưa ra quá nhiều chiến lược ngành, tạo nên một nền kinh tế được gọi là “quả mít” vì quá nhiều mũi nhọn, chả biết đâu là mũi nhọn cần lưu tâm để tạo đột phá. Phát triển đang theo hướng dàn hàng ngang, ở đâu cũng muốn làm cảng, ở đâu cũng muốn xây sân bay, ở đâu cũng muốn được đổ vốn về nhiều để xây dựng cơ sở hạ tầng và phải tới gần đây khi dư luận quá xôn xao về vấn đề giữ lại ngân sách cho Tp.HCM thì Thủ tướng đã chịu chủ trương nâng mức giữ lại cho đầu tàu kinh tế này. Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Trường Chính sách và Quản lý Đại học Fulbright, Thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng đánh giá, mặc dù Đông Nam Bộ đóng góp 45% GDP nhưng đầu tư cho vùng chỉ chiếm khoảng 18,5% tổng vốn đầu tư cả nước, hoàn toàn không tương xứng với những đóng góp to lớn của vùng. “Riêng TP HCM, từ 1/1/2017, tỷ lệ thu ngân sách được giữ lại đã giảm mạnh từ 23% xuống chỉ còn 18%“, ông Anh chia sẻ.
Quyết liệt trong hành động: Khi so sánh tại sao Trung Quốc cùng 1 thể chế với Việt Nam lại đạt được những thành tựu phát triển kinh tế đáng kinh ngạc, tác giả nêu ra nhiều điểm nhưng mình nhớ nhất lại là sự quyết liệt trong hành động của chính quyền trung ương cũng như địa phương – “bias for action”. Họ thực hiện mọi thứ rất quyết liệt, sau khi có mục tiêu rõ ràng họ triển khai rất nhanh, thành lập các đặc khu kinh tế tại Phúc Kiến, Quảng Đông và thu hút rầm rộ các Hoa kiều có lòng nhớ cố quốc hồi hương về đầu tư trong những năm 80. Theo tác giả “cơn sốt Việt Nam” lên cao tại Nhật từ năm 1993 và rất nhiều doanh nghiệp Nhật Bản rất muốn tìm cơ hội tại Việt Nam, tuy nhiên lúc đó chúng ta còn loay hoay trong việc thu hút vốn đầu tư với tâm lý sợ sệt và thực hiện quá nhiều hành vi phân biệt đối xử nội ngoại trong khi Trung Quốc thì rồng rắn gửi chuyên gia qua Nhật Bản học tập, mời mọc họ qua đầu tư và chuyển giao công nghệ… “cơn sốt Việt Nam” tại xứ sở Phù Tang kéo dài đến năm 1996 thì gần như nguội hẳn khi các doanh nghiệp Nhật Bản đã yên ổn với vùng đất mới ở phía Đông Nam Trung Hoa.
Nhân nói về quyết liệt trong hành động, hãy đọc Tiểu sử Steve Jobs để xem người lãnh đạo thành công phải biết “biến ước mơ thành hiện thực” ra sao:
Kết
Trong sách còn đề cập đến nhiều vấn đề về mô hình phát triển của Việt Nam và các phương cách tác giả đề ra để Việt Nam có thể nhanh chóng nắm lấy thời cơ để tăng tốc nền kinh tế. Ví như bài toán FDI, những năm 1990 chúng ta quá quan ngại trước vốn đầu tư nước ngoài nên tạo ra quá nhiều hạn chế cho môi trường đầu tư, sau khi hội nhập WTO thì lại mở cửa quá thoáng, các địa phương tranh nhau thu hút vốn đầu tư mà không có kế hoạch đánh giá và thẩm định rõ ràng để tạo nên tác động cộng hưởng cho nền kinh tế, đáp ứng cho chiến lược công nghiệp hóa. Dẫn tới thu hút nhiều ngành không đáng mà tư bản trong nước có thể liên doanh hoặc tự phát triển như giày da hoặc may mặc…
Tác giả nhấn mạnh nhiều lần vào vấn đề đầu tư cho giáo dục và công nghệ để chuẩn bị sẵn nguồn nhân lực có trình độ để nền kinh tế sẵn sàng chuyển mình vào những ngành có hàm lượng tri thức cao hơn. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là cải cách thể chế tạo điều kiện cho kinh tế tư nhất phát triển và nuôi dưỡng tư bản dân tộc. Một dân tộc có sự thống nhất cao về mặt văn hóa và có quy mô dân số đứng thứ 14 thế giới không thể chịu chấp nhận một vị trí khiêm tốn như hiện nay.
Nhiều câu hỏi đặt ra về cách sử dụng và phân bổ nguồn vốn của nhà nước, đặc biệt là vốn vay ODA, khi mỗi người dân Việt Nam đang bình quân gánh 40 USD tiền ODA nhưng hiệu quả sử dụng kém, hay các chi phí ngoài sổ sách kèm thủ tục hành chính và thuế má nhiêu khê đã cản trở sự phát triển của tư bản dân tộc. Cuốn sách như chứa đựng những tâm huyết và gan ruột của Tác giả, một người Việt thành danh tại nước ngoài, mong mỏi đóng góp công sức cho quá trình phát triển của Việt Nam. Hi vọng rằng những ý kiến đóng góp hợp tình hợp lý của tác giả sẽ được tiếp thu và triển khai một cách quyết liệt trong kế hoạch phát triển những năm tới đây để Việt Nam có thể nhanh chóng vươn mình thành con rồng mới của Á Châu như truyền thông thế giới đã mong chờ từ hơn 30 năm trước.
Các bạn có thể cùng thảo luận về cuốn sách tại page Đọc sách cùng Vũ